10 thuốc có nguồn gốc kì lạ nhất thế giới và việc sử dụng chúng trong lịch sử (Phần 1)

 

Tìm Việc Làm Ngành Dược & Y Tế

21/07/2020 00:09

939

Chúng ta đã quen với việc sử dụng thuốc - nhưng bạn có bao giờ thắc mắc về việc chúng đến từ đâu chưa? Hầu hết các loại thuốc hiện đại được tạo ra trong phòng thí nghiệm - nhưng một số loại có nguồn gốc kỳ lạ hoặc hết sức kỳ lạ từ nhưng sự kiện ngẫu nhiên trong cuộc sống.

 

1. Thuốc ức chế men chuyển ACE

Thuốc ức chế men chuyển là nhóm thuốc được sử dụng thường xuyên trong điều trị bệnh tim mạch, huyết áp cao và suy tim. Một ví dụ phổ biến là ramipril.

 

Nhưng bạn có biết rằng hoạt chất trong nhóm ức chế men chuyển đầu tiên, captopril, có nguồn gốc từ nọc rắn? Ra mắt vào năm 1981, captopril dựa trên một thành phần nọc độc của loài Viper Brazil độc hại (Bothrops Jararaca).

 

Người được nhận giải thưởng Nobel : John Vane ban đầu đã thử nghiệm peptide từ nọc độc trên phổi chó, thấy rằng chúng có thể ngăn chặn hoạt động của enzyme chuyển đổi angiotensin, từ đây Vane đã đề xuất một chương trình nghiên cứu về thuốc ức chế men chuyển, đến ngày nay là Bristol Myers Squibb. Nhiều sửa đổi và thử nghiệm sau đó, năm 1975 captopril đã ra đời.

 

2. Aspirin

Aspirin là một trong những loại thuốc đầu tiên được sử dụng phổ biến và nguồn gốc của nó có thể được truy gốc từ thời Ai Cập cổ đại.

 

Các hợp chất tự nhiên trong những gì chúng ta biết bây giờ là aspirin, được tìm thấy trong vỏ cây liễu và trong hoa cỏ. Một văn bản y học Ai Cập cổ đại, giấy cói Ebers, đề cập đến việc sử dụng cây liễu như một chất chống viêm hoặc giảm đau do đau nhức. Và tại Hy Lạp vào năm 400BC, Hippocrates đã cho phụ nữ uống trà lá liễu để giúp giảm bớt nỗi đau khi sinh nở.

 

Năm 1828 tại Đại học Munich, Giáo sư Joseph Buchner đã thành công trong việc chiết xuất hoạt chất từ ​​cây liễu, tạo ra các tinh thể mà ông đặt tên là salicin. Salicin trong một thử nghiệm lâm sàng vào năm 1876 cho thấy tác dụng giúp giảm sốt và viêm khớp ở bệnh nhân thấp khớp, và vào năm 1897, người ta đã phát hiện ra rằng thêm một nhóm acetyl vào axit salicylic có thể làm giảm các đặc tính gây kích ứng.

 

Acetylsalicyclic acid được đặt tên là Aspirin vào năm 1899 bởi hãng dược phẩm Bayer và thuốc bắt đầu được bán trên khắp thế giới.

 

3. Digoxin

Digoxin thuộc nhóm glycoside tim, chủ yếu được sử dụng để điều trị suy tim nhưng cũng có thể được sử dụng trong kiểm soát một số nhịp tim bất thường nhất định, bao gồm rung tâm nhĩ.

 

Các thành phần hoạt chất trong digoxin có nguồn gốc từ hoa foxglove màu tím (digitalis purpurea). Trong lịch sử, việc sử dụng digitalis có thể bắt nguồn từ Ai Cập cổ đại. Bác sĩ người Anh William Withering được ghi nhận với mô tả được công bố đầu tiên về việc sử dụng nó vào năm 1785.

 

4. Warfarin

Warfarin, thuộc nhóm thuốc chống đông máu được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới.

Bạn có thể chưa biết rằng warfarin được phát triển để sử dụng làm thuốc diệt chuột trước khi nó được sử dụng trong y học của con người. Nhưng bạn có biết rằng nó đã được phát hiện vào những năm 1920 sau khi gia súc khỏe mạnh trước đây ở Đồng bằng Bắc Mỹ và thảo nguyên Canada bắt đầu chết vì chảy máu trong?

 

Khi không tìm thấy nguyên nhân nào khác, sự chú ý chuyển sang chế độ ăn của vật nuôi. Người ta phát hiện ra rằng gia súc đang chăn thả trên cỏ khô làm từ cỏ ba lá ngọt (Melilotus alba và Melilotus officinalis).

 

Tỷ lệ chảy máu được tìm thấy là cao nhất khi cỏ khô ẩm ướt và kết quả là bị nhiễm nấm mốc Penicillium nigricans và Penicillium jensi. Thông thường, cỏ khô ẩm ướt sẽ bị loại bỏ nhưng vì đây là thời kỳ Đại suy thoái, tiền bạc rất eo hẹp và sự đạm bạc được ưu tiên. Sau đó người ta đã phát hiện ra rằng coumarin tự nhiên, gây ra mùi cỏ khô mới được chuyển thành dicoumarol sau khi nó bị nhiễm nấm mốc. Warfarin có nguồn gốc từ dicoumarol.

 

5. Nitrates

Glyceryl trinitrate (GTN), hiện được sử dụng để kiểm soát cơn đau thắt ngực.

 

Trên thực tế, nó giống như chất nổ nitroglycerin - được sử dụng để chế tạo thuốc nổ và thuốc súng. Cái tên glyceryl trinitrate được cộng đồng y tế chọn để tránh những bệnh nhân lo sợ nitroglycerin là một chất nổ.

 

Các đặc tính làm giãn mạch máu mà nitrat được sử dụng chủ yếu được quan sát vào năm 1847 bởi Abscanio Sobrero, người nhận thấy rằng việc tiếp xúc với nitroglycerin gây ra đau đầu. Điều này là do sự mở rộng của các mạch máu với liều cao không chủ ý gây ra cơn đau. Chính William Murrell đã thiết kế việc sử dụng nitrat cho đau thắt ngực và để giảm huyết áp.

 

DS Phương Thảo

Theo BHF.org.uk

Tags

Tin liên quan